Định nghĩa Sumer Sumer

Thuật ngữ Sumer được lấy từ các văn bản cổ,[2][3] xuất phát từ thuật ngữ tiếng Akkad Šumeru, chỉ vùng đất cực nam Lưỡng Hà, phân biệt với vùng đất Akkad ở phía bắc (Akkadum trong tiếng Akkad và ki-uri trong tiếng Sumer) của tộc người Semit nói tiếng Akkad. Các nhà sử học sau này đã tạo ra thuật ngữ "Sumer" để chỉ những người sống ở trong khu vực và nói ngôn ngữ này.

Người Sumer tự gọi mình là ùĝ saĝ gíg-ga (chữ hình nêm: 𒌦 𒊕 𒈪 𒂵, phiên âm: /uŋ saŋ giga/, nghĩa đen: "người đầu đen"),[4] và gọi vùng đất của họ là ki-en-gi(-r) (chữ hình nêm: 𒆠𒂗𒄀, nghĩa đen 'đất' + 'vua chúa' + 'cao quý'), nghĩa là "vùng đất của Vua". Người Akkad cũng gọi người Sumer là "người đầu đen", hay tsalmat-qaqqadi trong tiếng Akkad.[5]

Từ Šumeru trong tiếng Akkad có thể là tên gọi địa lý trong phương ngữ, nhưng chưa thể xác định chắc chắn về sự phát triển âm vị dẫn đến thuật ngữ šumerû trong tiếng Akkad.[1][6] Từ Shinar trong tiếng Hebrew, từ Sngr trong tiếng Ai Cập, và Šanhar(a) trong tiếng Hitti, đều để chỉ vùng nam Lưỡng Hà, có thể là những biến thể phương tây của Šumeru.[6] Thuật ngữ "tiếng Sumer" cũng được đề cập trong các văn bản cổ (eme-gi trong tiếng Sumer và šumeru trong tiếng Akkad) ở thời Babylon sau này.[7]

Vùng đất

Vùng đất Sumer trong thiên niên kỷ 3 có diện tích khoảng 30.000 km vuông, nằm ở phía nam của vùng đồng bằng châu thổ sông TigrisEuphrates. Phía Bắc tới Nippur, biên giới Sumer và Akkad, phía nam tới Vịnh Ba Tư, khi đó vẫn ở sâu trên phía bắc xa hơn nhiều so với ngày nay[8], bao gồm từ Eridu đến phía nam Lagash. Phía tây giáp sa mạc Syro-Arab rộng lớn ở Thượng Lưỡng Hà, phía đông kéo dài đến vùng đồi ở chân dãy Zagros, sau này là Elam. Sumer bị thống trị bởi một số thành bang chính: Ur, Uruk, Eridu, Girsu, Lagash, Shuruppak, Adab, Umma, Zabalam, Nippur. Vùng đất Sumer có khí hậu khô cằn như ngày nay, với địa hình bằng phẳng và các con sông là ranh giới tự nhiên chính. Bên cạnh các khu vực cận sa mạc, Sumer cũng bao gồm một số vùng đầm lầy ẩm ướt, bao gồm nhiều khu vực ven biển.[9]

Tiếng nói

Ngôn ngữ Sumer là một ngôn ngữ biệt lập, cho đến nay vẫn chưa xác định được mối quan hệ với một ngôn ngữ nào khác. Do đó, việc tái cấu trúc âm vị học tiếng Sumer vẫn còn hạn chế, trong khi ngữ pháp và từ vựng của nó được tìm hiểu rõ hơn hơn nhờ các văn bản cổ và các bộ từ vựng song ngữ Sumer-Akkad được soạn bởi các kinh sư. Hơn nữa, hai ngôn ngữ này có sự tương tác sâu sắc, tạo thành một vùng cộng sinh ngôn ngữ Sumer-Akkad. Tiếng Sumer có lẽ đã không còn được nói vào khoảng năm 2000 trước Công nguyên (thời kỳ chính xác đang được tranh luận), nhưng vẫn được sử dụng trong thờ phụng và văn học, như trường hợp của tiếng Latin ở châu Âu thời trung cổ và hiện đại.[10]

Dân tộc

Có nhiều tranh cãi về dân tộc Sumer. Các nhà sử học cuối thế kỷ 19 và nửa đầu thế kỷ 20 bị ảnh hưởng bởi vấn đề chủng tộc đang thịnh hành vào thời điểm bấy giờ, đã tìm cách xác định các đặc trưng của một "chủng tộc Sumer", dựa trên hình ảnh người Sumer được thể hiện trong nghệ thuật. Từ đó, họ cho rằng người Sumer có thói quen cạo tóc và râu, không giống như người Semit lông lá và để râu rậm. Các phương pháp nhân chủng học ngoại hình đã được áp dụng để tìm cách phân biệt các dạng hộp sọ của người Sumer và người Semit lân cận. Nhìn chung, các nhà sử học thường cho rằng đã một cuộc xung đột chủng tộc giữa người Sumer và người Semit, và coi đây là một chủ đề lớn trong nghiên cứu lịch sử chính trị thời bấy giờ. Tuy nhiên, theo Thorkild Jacobsen năm 1939, cư dân miền nam Lưỡng Hà không có sự phân biệt chủng tộc rõ nét và cũng không xung đột vì lý do này.[11]

Sau khi các cuộc tranh luận về vấn đề "chủng tộc" bị bác bỏ, thuật ngữ "Sumer" được dùng để chỉ những người nói tiếng Sumer trong cuộc sống hàng ngày hoặc những người sống ở các quốc gia Sumer dùng tiếng Sumer làm ngôn ngữ viết thông dụng nhất.[12] Tuy nhiên, chưa thể chắc chắn rằng một thành phố ở một thời kỳ nhất định dùng tiếng Sumer làm ngôn ngữ viết chính sẽ đi kèm với việc người dân sử dụng nó làm tiếng phổ thông. Một cách khác để xác định người nói tiếng Sumer là thông qua tên của họ, bởi vì người dân Nam Lưỡng Hà ở thiên niên kỷ thứ 3 chủ yếu có tên tiếng Sumer hoặc tiếng Akkad. Các nghiên cứu cho thấy một quốc gia Sumer là nơi mà các văn bản viết bằng tiếng Sumer chiếm đa số, cũng như con người có tên tiếng Sumer, có thể bao gồm các yếu tố tiếng Akkad nếu ở những khu vực gần phía bắc có đông người nói tiếng Semit. Còn một số ý kiến trái ngược, nhưng đa số các nhà sử học bác bỏ các ý kiến cho rằng hai nhóm người đối lập nhau và có xung đột trong những thời kỳ nhất định, cho rằng họ là những quần thể sống cộng sinh.[12][13][14]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Sumer http://members.optusnet.com.au/~gtosiris/page11-4.... http://www.britannica.com/EBchecked/topic/573176/S... http://books.google.com/?id=dWuQ70MtnIQC&pg=PA51&d... http://books.google.com/?id=i7_hcCxJd9AC&pg=PA147&... http://books.google.com/?id=tupSM5y9yEkC&pg=PA139&... http://books.google.com/?id=zmvNogJO2ZgC&pg=PA505&... http://books.google.com/books?id=BKRE5AjRM3AC&prin... http://books.google.com/books?id=lbmXsaTGNKUC&pg=P... http://books.google.com/books?id=pr8-i1iFnIQC&prin... http://ancientneareast.tripod.com/Sumer.html